SIÊU ÂM TỬ CUNG
“People only see what they are prepared to see.”
Ralph Waldo Emerson
Dr. NGUYỄN QUANG TRỌNG
website: www.sieuamvietnam.vn, www.cdhanqk.com
(Lớp Siêu Âm Sản-Phụ Khoa, khóa 22, ĐHYPNT-MEDIC, 2016)
IMAGING DEPARTMENT
FV HOSPITAL – HCM CITY
(Post từ nguồn file PDF trên website chi hội siêu âm http://sieuamvietnam.vn/)
NỘI DUNG
• Giải phẫu.
Tử cung và phần phụ nhìn từ phía sau
Tử cung và phần phụ – mặt cắt vành
• TC gập trước (anteflexion) khi trục của thân TC hợp với trục của cổ TC một góc 900 – 1200 mở về phía trước.
• Gọi là hyper-anteflexion khi góc này < 900.
• TC gập sau (retroflexion) khi trục của thân TC hợp với trục của cổ TC một góc 900 – 1200 mở về phía sau.
• Gọi là hyper-retroflexion khi góc này < 900
• TC trung gian (intermedial position) khi trục của thân TC hợp với trục của cổ TC một góc 1800 , tức là trục của thân TC cũng là trục của cổ TC.
• TC ngả trước (anteversion) khi trục của cổ TC hợp với trục của âm đạo một góc 900 mở về phía trước.
• TC ngả sau (retroversion) khi trục của cổ TC hợp với trục của âm đạo một góc 900 mở về phía sau.
• Ở 80% phụ nữ, tử cung có tư thế gập trước (anteflexion) và ngả trước (anteversion), đây là tư thế ít có nguy cơ bị sa sinh dục.
Về phương diện thực hành siêu âm, ta chỉ sử dụng các khái niệm gập trước (anteflexion), gập sau (retroflexion) và trung gian (intermedial position).
KỸ THUẬT
• Siêu âm có thể thực hiện qua ngã bụng với đầu đò tần số 3,5 – 5 MHz. Bệnh nhân cần phải có bàng quang đầy nước tiểu (lý tưởng là phải phủ toàn bộ đáy TC).
• Ngoài ra, tử cung còn đƣợc khảo sát tốt hơn qua ngã âm đạo với đầu dò có tần số 7,5 – 10 MHz. Bệnh nhân cần phải có bàng quang không nước tiểu để các cơ quan vùng chậu không bị đẩy ra xa đầu dò.
SA qua ngã bụng: Bàng quang căng quá mức sẽ làm biến dạng các cấu trúc giải phẫu, có thể đẩy các cơ quan vùng chậu ra ngoài vùng khảo sát rõ của đầu dò.
(C.M.Rumack et al. Diagnostic Ultrasound. 3rd Edition. 2005. p527-579)
• TC nằm trong khung chậu, giữa bang quang phía trước va trực trang phía sau.
• Cổ TC cố định ở đường giữa, nhưng thân TC thường lệch nhe sang (P) hay sang (T) so với đường giữa.
• Hai hướng cắt cơ bản la các lát cắt dọc (sagittal plane) va các lát cắt ngang (axial plane) với siêu âm qua nga bụng, lát cắt dọc va lát cắt vanh (coronal plane) với siêu âm qua nga âm đạo.
(C.M.Rumack et al. Diagnostic Ultrasound. 3rd Edition. 2005. p527-579)
SA qua ngã âm đạo: Bàng quang có nước tiểu sẽ đẩy các cơ quan vùng chậu ra ngoài vùng khảo sát của đầu dò.
TỬ CUNG BÌNH THƯỜNG
• TC ở trẻ sơ sinh (neonatal uterus) có hình quả lê ngƣợc, tức la tỷ lệ đáy TC / cổ TC = 1/2.
(Laurent Garel, MD et al. US of the Pediatric Female Pelvis: A Clinical Perspective. Radiographics. 2001;21:1393-1407.)
TC trƯớc dậy thì (prepubertal uterus) có hình ống, tức la tỷ lệ đáy TC / cổ TC = 1/1.
TC hình ống, nội mạc TC la đường hồi âm day ở trung tâm.
(Laurent Garel, MD et al. US of the Pediatric Female Pelvis: A Clinical Perspective.
Radiographics. 2001;21:1393-1407.)
• TC tuổi dậy thì (pubertal uterus) va người lớn có hình quả lê, tức la tỷ lệ đáy TC / cổ TC = 2/1 – 3/1.
TC hình quả lê, nội mạc TC la đường hồi âm day ở trung tâm
(Laurent Garel, MD et al. US of the Pediatric Female Pelvis: A Clinical Perspective. Radiographics. 2001;21:1393-1407.)
.• Cơ tử cung gồm 3 lớp, có thể phân biệt trên siêu âm:
– Lớp giữa: day nhất, có hồi âm trung bình.
– Lớp trong: mỏng, có hồi âm kém, bao quanh nội mạc.
– Lớp ngoài: mỏng, có hồi âm kém hơn lớp giữa, ngăn cách với lớp giữa
bằng các ĐM vòng cung (những cấu trúc ngoằn ngoèo như rắn bò (serpiginous structures), có tín hiệu Doppler mau.
• Sau tuổi man kinh, đôi khi ta có thể thấy vôi hoá ở các động mạch vòng cung.
1. Thời kỳ ra kinh (N1-N5): nội mạc rất mỏng, < 4mm, hồi âm dày.
2. Thời kỳ tăng sinh (N6-N13): nội mạc dày lên, 4-8mm, hồi âm có 3 lớp.
3. Thời kỳ rụng trứng (N14): nội mạc dày hơn, 6-10mm, hồi âm có 3 lớp.
4. Thời kỳ sau rụng trứng (N15-N28): nội mạc dày nhất, 7-14mm, hồi âm dày.
Xem tiếp trang 2