Hình ảnh các dây thần kinh sọ bình thường trên kỹ thuật MRI SSFP
01/02/2017
Hình ảnh nhiễm trùng hệ thần kinh trung ương
02/02/2017

Tổn thương hạ đồi : Đặc điểm chẩn đoán MRI

Tiếp theo

U thần kinh đệm hạ đồi-chéo thị

U thần kinh đệm hạ đồi và chéo thị được bàn luận chung trong bài này vì hai loại u này khó phân biệt do điểm xuất phát thường không thể xác định được. U thần kinh đệm chéo thị và hạ đồi chiềm 10- 15% u trên lều ở trẻ em. nam nữ mắc bệnh như nhau. Lúc biểu hiện, bệnh nhân thường 2-4 tuổi với giảm thị lực. Rối loạn chức năng nội tiết, thường gặp nhất là giảm hormone phát triển (GH) dẫn đến lùn, chiềm khoảng 20% bệnh nhân. Khoảng 20-50% bệnh nhân u thần kinh đệm hạ đồi có bệnh sử gia đình dương tính với bệnh von Reckling-hausen (NF1). U thần kinh đệm chéo thị và hạ đồi ở trẻ em bị NF1 thường có diễn tiến chậm hơn. Các u này có thể phát triển chậm hơn và đôi khi thoái triển tự phát. MRI là tối ưu để cho thấy mối quan hệ của khối với hạ đồi, chéo thị và cuống tuyến yên cũng như thành phần trong ổ mắt và ống thị giác của khối. U thần kinh đệm của chéo thị và hạ đồi hầu như luôn giảm tín hiệu trên T1W, tăng tín hiệu trên T2W và FLAIR (hình 11). Các u lớn thường không đồng nhất với thành phần nang và mô đặc, phần mô đặc bắt thuốc rõ rệt hơn sau tiêm thuốc. 
tthadoi11
Hình 11 . U thần kinh đệm hạ đồi-chéo thị ở bệnh nhân nam 4 tuổi bị NF1. Hình sagittal T1W (a) và hình axial T2W (b) thấy khối hạ đồi không đều ( mũi tên ở a) liên quan đến chéo thị và lan đến thần kinh thị phải (đầu mũi tên ở b). khối tín hiệu thấp không đồng nhất trên T1W và cao trên T2W các dầu hiệu điển hình cho tổn thương này. Chẩn đoán (glioma hạ đồi-chéo thị) được khẳng định lúc phẫu thuật.

U thần kinh đệm hạch (ganglioglioma)

là u phát triển chậm tương đối lành tính gồm hỗn hợp tế bào thấn kinh và tế bào đệm. Là u hiếm, chiếm chỉ 0.4-1.3% các u não và thường gặp nhất ở thuỳ thái dương. U thần kinh đệm hạnh ở hạ đồi và chéo thị là cực kỳ hiếm. Trong một bài báo điểm lại 11 trường hợp được báo cáo về u thần kinh đệm hạch liên quan đến chéo thị, tuổi trung bình là 20 và nam chiếm ưu thế nhẹ so với nữ. tất cả các bệnh nhân đều có tổn thương thị giác. Tăng prolactin máu thứ phát do chèn ép cuống tuyến yên cũng thấy trong một trường hợp. MRI của u thâầ kinh đệm hạch không đặc hiệu. Tổn thuơng có thể đồng hoặc giảm tín hiệu trên T1W và tăng tín hiệu trên T2W. Thành phần nang chiếm khoảng 60% u thần kinh đệm hạch; trong các trường hợp còn lại, tổn thường hoàn toàn là thành phần đặc. Thành phần nang có thể thấy tín hiệu cao hơn dịch não tuỷ trên T2W, một dấu hiệu biểu hiện của chất gelatin. Bắt thuốc có thể là viền nốt hoặc dạng mô đặc (hình 12). 
tthadoi12
Hình 12. U thần kinh đệm hạch ở bệnh nhân nam 20 tuổi đau đầu và nhìn mờ. Coronal T1W sau tiêm (a), T2W (b) và sagittal T1W sau tiêm (c) thấy khối hạ đồi không đều có hỗn hợp nang và mô đặc bắt thuốc (mũi tên ở c). Thành phần nang tăng tín hiệu so với dịch não tuỷ (mũi tên ở a và b).

Choristoma

Là một u thần kinh đệm grade thấp đặc biệt xuất phát dọc theo yên thần kinh gồm cuống và thuỳ sau tuyến yên. người ta nghĩ là chúng xuất phát từ tế bào tuyến yên, một sao bào bị biến đổi và tế bà thuỳ sau tuyến yên chính. Vì nguồn gốc bí ẩn, choristoma còn được gọi với nhiều tên khác gồm u cuống tuyến yên và u tế bào hạt. Choritoma là một u hiếm, theo hiểu biết của chúng tôi, chỉ khoảng 70 trường hợp được báo cáo trong y văn. U thường biểu hiện trong độ tuổi 40-50 và nữ ưu thế 2:1. Dấu hiệu lâm sàng thường gặp là khiếm khuyết thị trường và rối loạn nội tiết và suy toàn bộ tuyến yên hoặc, hiếm gặp hơn là đái tháo nhạt. Choristoma là u lành tính và phát triển chậm, không có xu hướng xâm lấn hoặc tái phát rõ rệt. Trên MRI, choristoma là khối giới hạn rõ ở trên yên, trong yên hoặc cả hai. Đặc điểm tín hiệu trên MRI thay đổi phụ thuộc vào sự hiện diện của nang. Phần đặc của u đồng tín hiệu với nhu mô não trên T1W và T2W, bắt thuốc không đồng nhất (hình 13). 
tthadoi13
Hình 13. Choristoma ở bệnh nhân nam 55 tuổi giảm thị lực dần. Hình coronal T1W không tiêm thuốc (a) và hình sagittal T1W sau tiêm (b) thâấ khối trên yên giới hạn rõ (mũi tên), khối này từ đồng đến giảm tín hiệu nhẹ so với nhu mô não trên hình không tiêm thuốc và bắt thuốc không đồng nhất

CÁC U MẠCH MÁU

U nguyên bào mạch máu (hemangioblastoma) -là u mạch máu lành tính chiếm 2% u hệ thần kinh trung ương nguyên phát. Chúng thường gặp ở bệnh nhân từ 35-45 tuổi. Mặc dù u nguyên bào mạch máu thường là u đơn độc, chúng có thể liên quan với bệnh von Hippel- Lindau, là một bệnh di truyền gây ra u nguyên bào mạch máu và một số các u ở tạng. U nguyên bào mạch máu trong bệnh von Hippel-Lindau gặp ở bệnh nhên trẻ hơn và có tiên lưuọng xâấ hơn u nguyên bào mạch máu thể tản mác. U nguyên bào mạch máu thường ảnh hưởng đến tiểu não, sau đó là tuỷ sống và thân não. U nằm ở trục hạ đồi-yên là rất ít gặp, đế nay có rất ít trường hợp được báo cáo. U nguyên bào mạch máu ở vị trí này làm tăng mức độ nghi ngờ bệnh von Hippel- Lindau. Kỹ thuật hình ảnh tốt nhất có sẵn là MRI tiêm thuốc tương phản từ. U nguyên bào mạch máu ở não thường thấy trên MRI là các vùng nang kèm bắt thuốc nốt thành đặc (hình 14).
tthadoi14
Hình 14. U nguyên bào mạch máu hạ đồi ở bệnh nhân nữ 54 tuổi đau đầu. (a) Hình sagittal T1w thâấ tổn thuơng hạ đồi giảm tín hiệu không đồng nhất (đầu mũi tên). (b) trên hình coronal T1W tiêm thuốc, tổn thương là thành phần nang pức tạp với bắt thuốc viền (mũi tên ngắn) và bắt thuốc nốt thành mạnh (mũi tên dài).

U mạch hang (cavernoma) –

U mạch hang là dị dạng mạch máu lành tính được xem như là xuất phát không có sự phát triển mạch máu phôi bình thường. Chúng thường gặp ở bán cầu đại não và ở nông và tiếp xúc chặt chẽ với khoang dưới nhện và hệ thống não thất. U mạch hang hiếm khi được báo cáo ở hạ đồi, mặc dù u ở vị trí này thường gặp ở trẻ em hơn ngừơi lớn. MRI là một khảo sát hình ảnh chọn lựa cho u mạch nang nhu mô. Các dấu hiệu hình ảnh đặc trưng (và chẩn đoán) bao gồm một lõi không đồng nhất của xuất huyết ở các giai đoạn khác nhau, viền ngoại vi tín hiệu thấp biểu hiện của hemosiderin và không có phù xung quanh (hình 15). 
tthadoi15
Hình 15. U mạch hang hạ đồi ở bé trai 9 tuổi bị giảm thị lực cấp (Chảy máu chéo thị). (a) hình sagittal T1W thấy tổn thuơng hạ đồi với vùng trung tâm tín hiệu cao (mũi tên), một dấu hiệu chứng tỏ xuất huyết. (b) hình axial thấy tín hiệu trống (đầu mũi tên) biểu hiện cấu trúc mạch máu. (c) Trên hình coronal T1W sau tiêm, tĩnh mạch lớn trong tổn thuơng (đầu mũi tên) bắt thuốc rõ rệt và có đưuòng chạy xuyên nhu mô lạc chỗ điển hình. Dấu hiệu MRI của máu ở các giai đoạn khác nhau trong tổn thương hạ đồi gợi ý nhiều đến u mạch hang.

Các u ở cơ thể ảnh hưởng đến hệ thần kinh trung ương Vì củ xám, cuống tuyến yên và yên thần kinh không có hàng rào máu não, chúng thường dễ bị di căn theo đường máu nhiều hơn nhu mô não. Tần suất của di căn trục tuyến yên hạ đối chiếm từ 1-25% trong mổ tử thi ở bệnh nhân bị ung thư trong cơ thể. Vị trí nguyên phát thường gặp nhất của u ở phụ nữ là tuyến vú, sau đó là phổi, dạ dày và tử cung; ở nam là phổi, sau đó là tiền liệt tuyến, bang quang, dạ dày và tuỵ. Trên MRI, di căn cuống tuyến yên gây dày cuống rõ rệt. Các di căn này thuờng đồng tín hiệu trên T1W và bắt thuốc. không giống adenoma tuyến yên, di căn đến trục hạ đồi-yên thường thấy huỷ xương mạnh nhưng không lớn tuyến yên rõ rệt (hình 16). 
tthadoi16
Hình 16. Carcinoma di căn đến trục hạ đồi yên ở bệnh nhân ung thư vú. (a) Hình sagittal T1W thấy khối lớn ở xương bản vuông kèm phá huỷ xương yên và xâm lấn vùng trên yeê (mũi tên). (b) Hình T1W sau tiêm thuốc tương ứng thấy lan rõ của tổn thương di căn và thấy một khối nhỏ hạ đồi bắt thuốc (mũi tên).

Các bệnh lý viêm và mô hạt

Viêm não là viêm nhu mô não và có thể do nhiễm trùng hoặc không nhiễm trùng. Nguyên nhân thường gặp nhất của viêm não nhiễm trùng là nhiễm virus. Viêm não hạ ôồi do virus có thể có biểu hiện sốt, đái tháo nhạt và hội chứng tiết ADH không thích hợp. MRI cho thấy độ lan của viêm ở vùng hạ đồi và giúp phân biệt viêm não với các bệnh lý vùng hạ đồi khác có khối choán chỗ. Phù ở vùng hạ đồi tăng tín hiệu trên T2W và FLAIR và đồng hoặc giảm tín hiệu trên T1W (hình 17)
tthadoi17
Hình 17. Viêm não hạ đồi ở bệnh nhân nam 35 tuổi có đái tháo nhạt. Hình coronal T2W thấy tăng tín hiệu ở vùng đồi thị-hạ đồi (mũi tên) tương ứng với phù (hình của Yasser Ragab, MD, Cairo, Egypt).

Các nguyên nhân viêm không nhiễm trùng: gồm bệnh tăng sinh mô bào Langerhans (LCH), viêm cuống tuyến yên-tuyến yên lympho bào và sarcoidosis.

Bệnh tăng sinh mô bào Langerhans (LCH) – là bệnh có tế bào Langerhans chiếm ưu thế, đó là các tế bào có nguồn gốc từ tuỷ xương của dòng tế bào đuôi gai (dendritic cell). Các tế bào này bị tổn thương trong nhiều loại đáp ứng miễn dịch và có thể thâm nhiễm nhiều vị trí giải phẫu ở dạng tổn thươgn khu trú hoặc hoặc bệnh hệ thống lan toả. LCH có tần suất 0.2-2.0 trường hợp trong 100.000 trẻ em dưới 15 tuổi; ít hơn 30% các trường hợp được báo cáo ở người lớn. Các tổn thương LCH có ưu thế không giải thích được đối với trục hạ đồi – yên. Tổn thương hạ đồi dẫn đến đái tháo nhạt trong 5-50% trường hợp LCH. Trên MRI, thay đổi hình thái thường gặp nhất là dày cuống tuyến yên (3mm) (hình 18). Tổn thương từ dày nhẹ cuống tuyến yên đến khối choán chỗ hạ đồi rõ rệt tập trung ở phần sau của cuống tuyến yên. Tổn thương hạ đồi bắt thuốc rõ sau tiêm. Không có tăng tín hiệu bình thường ở thuỳ sau (đốm sáng) trên T1W, hố yên trống một phần hoặc hoàn toàn hoặc hẹp cuống tuyến yên giống sợi chỉ (chiều rộng tối đa < 1mm) cũng có thể gặp trong LCH. Ngoài các tổn thương ở vùng hạ đồi-yên, tổn thương hệ thần kinh trung ương chỉ chiếm 4% bệnh nhân LCH. 
tthadoi18
Hình 18. LCH ở bệnh nhân nam 8 tuổi đái tháo nhạt. Hình sagittal T1W sau tiêm thấy dày cuống tuyến yên (mũi tên). Ghi nhận không có tăng tín hiệu bình thường ở thuỳ sau (hình của Yasser Ragab, MD, Cairo, Egypt).

Viêm cuống-thùy sau tuyến yên lympho bào
– là một bệnh lý viêm tự miễn do thâm nhiễm lympho bào và tương bào chủ yếu ở hạ đồi, cuống tuyến yên và thuỳ sau tuyến yên. Đây là bệnh ở người lớn, đặc biệt là ở phụ nữ bị suy tuyến yên trong thời kỳ chu sinh. MRI thấy lớn hạ đồi và cuống tuyến yên và đôi khi ở chính tuyến yên. Các vùng lớn này thường thấy bắt thuốc đồng nhất. Các dấu hiệu hình ảnh không đặc hiệu, và chẩn đoán tốt nhất được xác lập trên mô học dựa vào thâm nhiễm lympho bào của hạ đồi.

Sarcoidosis

– là một bệhn lý mô hạt đa cơ quan nguyên nhân không rõ, thường gặp ở người lớn trẻ ở cả hai giới. Cơ quan thường bị nhất là phổi, da và hạch bạch huyết. Tổn thương hệ thần kinh trung ương trên lâm sàng (neurosarcoidosis) gặp ở khoảng 10% bệnh nhân trong đợt diễn tiến của bệnh. Neurosarcoidosis phát sinh chủ yếu ở màng mềm và có thể lan dọc theo khoang Virchow-Robin để tạo thành khối trong nhu mô. Bệnh có ưu thế ở đáy não, đặcb iệt là hạ đồi và tuyến yên, mặc dầu có thể gặp ở bất kỳ nơi đâu của hệ thần kinh trung ưong. Vì vậy, rối loạn trục hạ đồi-yên (với đái tháo nhạt và suy thuỳ trước tuyến yên) là đặc điểm thường gặp nhất của  neurosarcoidosis. Trên MRI, thâm nhiễm tạo mô hạt của màng cứng gây dày dạng mảng hoặc nốt có thể ghi nhận ở cuống tuyến yên và chéo thị (hình19). Các tổn thương có xu hướng đồng tín hiệu với chất xám trên T1W và giảm tín hiệu trên T2W. Tuy nhiên, các u hạt màng mềm có thể không nhận thấy trên hình không tiêm thuốc (hình 19). Trên các hình tiêm thuốc, bắt thuốc màng não mạnh thường thường gặp nhất ở màng não và rãnh não vùng đáy. Một trong những biểu hiện điển hình nhất là dày và bắt thuốc cuống tuyến yên. Đôi khi các u hạt kết hợp lại để tạo thành khối lớn, đặc biệt ở vùng sàn não thất ba và chéo thị.
tthadoi19
Hình 19. Neurosarcoidosis ở bệnh nhân nữ 32 tuổi đái tháo nhạt. (a) Hình MRI T1W không tiêm thuốc thấy dày không đều chéo thị (mũi tên). (b) Hình tương ứng sau tiêm thấy bắt thuốc cuống tuyến yên và màng mềm lan rộng (các mũi tên). Ghi nhận các u hạt màng mềm không nhìn thấy được trên hình không tiêm thuốc.

Các tổn thương xuất phát từ các cấu trúc xung quanh

Adenoma tuyến yên lớn có thể lan đến bể trên yên, xâm lấn hạ đồi. Adenoma tuyến yên trên yên lạc chỗ rất hiếm. Trên MRI, adenoma tuyến yên lớn có thể cho thấy các dạng tín hiệu khác nhau phụ thuộc vào thành phần hoại tử, nang hoặc xuất huyết. Sự lắng các sản phẩm của máu có thể tạo ra mức dịch-dịch trong khối, có lẽ thường gặp ở adenoma tuyến yên hơn là u sọ hầu, nang khe Rathke (hình 20).
tthadoi20
Hình 20. Adenoma tuyến yên xuất huyết có mức dịch-dịch ở bệnh nhân nữ 42 tuổi đau đầu và khiếm khuyết thị trường. Hình sagittal T1W sau tiêm thấy u trong và trên yên lớn, đặc, bắt thuốc. Mũi tên chỉ ra mức dịch-dịch tạo ra do lắng của xuất huyết lâu ngày trong u. Chẩn đoán adenoma xuất huyết được khẳng định lúc phẫu thuật.

Hình T1W tăng tín hiệu của thuỳ sau tuyến yên bình thường thấy trong yên. Thuỳ sau tuyến yên lạc chỗ là tín hiệu sáng này nằm ở vị trí khác (chẳng hạn, ở ụ giữa) (hình 21). Mô thuỳ sau tuyến yên lạc chỗ có thể do di trú neuron khiếm khuyết trong lúc tạo phôi. Thuỳ sau tuyến yên lạc chỗ thường kết hợp với suy giảm hoặc không có cuống tuyến yên cũng như giảm trọng lượng thuỳ trước tuyến yên. 

 
tthadoi21
Hình 21. Thuỳ sau tuyến yên lạc chỗ ở bệnh nhân nam 8 tuổi chậm phát triển. Hình sagittal T1W thấy thuỳ sau tuyến yên ở vị trí bất thường ở ụ giữa và là một vùng tăng tín hiệu nhỏ giới hạn rõ (mũi tên). Ghi nhận thuỳ trước tuyên yên nhỏ và không nhìn thấy cuống tuyến yên (hình của Yasser Ragab, MD, Cairo, Egypt).

♣ Chẩn đoán phân biệt các tổn thương liên quan hạ đồi:

Hạ đồi nhạy với tổn thương liên quan với một nhóm lớn các bệnh lư. Tuy nhiên các khối thường gặp nhất ở vùng hạ đồi là adenoma tuyến yên trên yên, u màng năo, u sọ hầu và u thần kinh đệm hạ đồi-chéothị; các tổn thương khác ít gặp hơn và thậm chí hiếm gặp. Tuổi bệnh nhân, các dấu hiệu lâm sang lúc biểu hiện và các đặc điểm MRI của tổn thương liên quan hạ đồi có thể giúp đưa ra chNn đoán phân biệt. Theo tuổi,biểu hiện trước 5 tuổi ưu thế cho chẩn đoán u thần kinh đệm, khi kết hợp với dấu hiệu X quang hoặc ở da của NF1. U sọ hầu, hamartoma, u tế bào mầm gặp ở trẻ em, trong khi nang khe Rathke, u màng năo và viêm thường gặp hơn ở người lớn trẻ. Di căn có thể gợi ư nhiều ở người già có biểu hiện bệnh liên quan vùng hạ đồi và cuống tuyến yên.

Kiến thức về biểu hiện lâm sàng đặc trưng là quan trọng để đưa ra chẩn đoán phân biệt các tổn thương vùng hạ đồi. Hamartoma của củ xám có biểu hiện các dấu hiệu và các triệu chứng đặc hiệu của dậy th́ì sớm và động kinh cười. Không giống như u tuyến yên nguyên phát, các tổn thương hạ đồi có thể gây ra suy thuỳ sau tuyến yên. Đái tháo nhạt thường hiện diện lúc có biểu hiện u tế bào mầm hạ đồi và các bệnh lư mô hạt, trong khi bệnh nhân bị glioma hạ đồi hiếm khi gây đái tháo nhạt cho đến giai đoạn sau của diễn tiến bệnh. Tuy nhiên, ở nhiều bệnh nhân tổn thương hạ đồi, các dấu hiệu và triểu chứng biểu hiện chỉ đơn thuần giúp định vị tổn thương, các đặc điểm MRI gồm vị trí giải phẫu, tín hiệu và các dạng bắt thuốc cần phải được xem xét để có chẩn đoán đặc hiệu hơn.
Chi tiết giải phẫu rõ ràng trên MRI là dễ định vị tổn thương hạ đồi. Một số tổn thương hạ đồi cho thấy độ chắc chắn rơ rệt về vị trí như hamrtoma và osteolipoma (ở củ xám). Cuống tuyến yên dày, bắt thuốc là biểu hiện tiêu biểu nhất của u tế bào mầm, viêm tuyến yên lympho bào, sarcoidosis và LCH. Tuy nhiên dày cuống tuyến yên đơn độc, vô căn, có thể gặp trong các trường hợp đái tháo nhạt trung ương mà không có bằng chứng của các quá tŕnh thâm nhiễm.
Tổn thương chéo thị và thần kinh thị do u hạ đồi có thể hướng đến chNn đoán u thần kinh đệm hạ đồi-chéo thị. Các tổn thương hạ đồi lớn hơn có thể lan vào hố yên và vùng cạnh yên. ChNn đoán phân biệt các tổn thương này gồm adenoma tuyến yên lan lên trên yên.

Trả lời các câu hỏi sau đây có thể giúp đưa ra chẩn đoán phân biệt các khối choán chỗ trong hoặc trên yên

Tiêu điểm của khối trên yên? Tiêu điểm của các tổn thương hạ đồi là trên yên, trong khi adenoma tuyên yên thường ở trong yên.
Tổn thương có làm rộng hố yên không? Hố yên rộng thường phù hợp với tổn thương trong yên hơn như adenoma hoặc nang khe Rathke.
Tổn thương trong trục hay ngoài trục? Việc xác định này giúp phân biệt tổn thương trong trục có nguồn gốc từ hạ đồi với các tổn thương ngoài trục (chẳng hạn,u màng năo).

Các cấu trúc khác b́ìhh thường nh́n thấy ở vùng này bị ảnh hưởng như thế nào bởi sự hiện diện của tổn thương? Chéo thị bị đẩy lên trên hay xuống dưới? Không giống tổn thương tuyến yên, các khối choán chỗ hạ đồi đNy chéo thị xuống dưới hơn là lên trên.
Các dạng tín hiệu MRI cho phép xác định đặc điểm khoảng 30% tổn thương trên yên. Không có tín hiệu trên tất cả các chuỗi xung do ḍng máu chảy nhanh hoặc không có tín hiệu trên T1W kèm tăng tín hiệu trên T2W do ḍng chảy chậm hoặc ḍạng xoáy cho phép chẩn đoán chắc chắn dị dạng mạch máu. Tuy nhiên, tín hiệu rất thấp của tổn thương đóng vôi có thể nhầm với cấu trúc mạch máu. H́nh ảnh GRE có thể cho thấy hiệu ứng nhạy từ của các thành phần vôi hoá. Tăng tín hiệu trên T1W là dấu hiệu MRI thường gặp của vùng hạ đồi và có nhiều nguồn gốc khác nhau. Các tổn thương gồm thuỳ sau tuyến yên lạc chỗ; tín hiệu sáng liên quan với sự ứ đọng vasopressin trong thuỳ sau tuyến yên. Tăng tín hiệu trên T1W cũng có thể liên quan với cục máu đông (adenoma trên yên xuất huyết), nồng độ protein cao (nang khe Rathke, u sọ hầu), mỡ (lipoma, nang bì), đóng vôi (u sọ hầu) hoặc chất thuận từ (di căn melanoma). Nhiều bất thường liên quan với vùng hạ đồi có đặc điểm tín hiệu không đặc hiệu gồm u thần kinh đệm, di căn và viêm năo, tất cả các tổn thương này đều giảm tín hiệu trên T1W và tăng tín hiệu trên T2W.
Các tổn thương gần như đồng tín hiệu với nhu mô năo gồm germinoma, một số hamartoma, và u màng năo trên yên. Tính chất đồng tín hiệu này giúp phân biệt các tổn thương này với các u khác thường tăng tín hiệu trên T2W. Các dấu hiệu MRI sau tiêm bao gồm nhiều dạng bắt thuốc khác nhau. Về kinh điển, hamartoma hạ đồi không bắt thuốc. Dấu hiệu này khá đặc trưng và giúp phân biệt hamartoma với các tổn thương khác. Bắt thuốc của các tổn thương hạ đồi khác có phạm vi từ đồng nhất (germinoma) đến dạng mảng và không đều (u sọ hầu, u thần kinh đệm). Các dấu hiệu bắt thuốc màng mềm kèm theo kết hợp với nhiều ổ bắt thuốc nhu mô có thể hướng đến sarcoidosis. Bắt thuốc đồng nhất khu trú của cuống tuyến yên gặp trong u hạt LCH. U màng năo có thể thấy bắt thuốc dày màng cứng (”dấu hiệu đuôi màng cứng”). Dạng bắt thuốc động học điển h́nh của germinoma hạ đồi, LCH và u nguyên bào mạch máu là bắt thuốc tăng dần mà không thải thuốc nhanh, trong khi viêm thuỳ trước tuyến yên bắt thuốc tăng lên độtn gột và thải thuốc nhanh. V́ vậy, MRI động học có thể giúp phân biệt germinoma với viêm thùy trước tuyến yên nhưng không giúp phân biệt với LCH hoặc u nguyên bào mạch máu. MRI tiêm thuốc tương phản từ đóng vai tṛò chính yếu để phân biệt nang không u (chẳng hạn, nang màng nhện, nang thượng b́ và nang keo) với u dạng nang (chẳng hạn, Nang khe Rathke, u sọ hầu, adenoma tuyến yên dạng nang) trong vùng hạ đồi. Không giống như nang không u, u nang thường bắt thuốc thành nang. Các chuỗi xung khuếch tán giúp ích nhất trong phân biệt nang thượng bì với nang màng nhện hoặc khoang dịch năo tuỷ rộng, v́ nang màng nhện tín hiệu cao hơn dịch năo tuỷ. 
Cộng hưởng từ phổ của u thần kinh đệm hạ đồi cho thấy tăng cholin và giảm NAA. Các dấu hiệu này có thể giúp phân biệt glioma với u sọ hầu có ưu thế đỉnh lipid (≈ 1ppm) và với adenoma tuyến yên chỉ có đỉnh cholin hoặc không có chất chuyển hoá nào cả. Sự hiện diện của đỉnh lactate và lipid phù hợp với u xâm nhập, phản ảnh chuyển hoá kỵ khí và hoại tử tế bào, theo thứ tự. Đỉnh lipid nổi bật trong phổ cộng hưởng từ của trường hợp germinoma hạ đồi gợi ư có di căn theo dịch năo tuỷ. Cộng hưởng từ phổ của hamartoma hạ đồi cho thấy dạng điển hình của giảm NAA và tăng myoinositol so với chất xám b́nh thường. Dấu hiệu MR phổ mấu chốt này liên quan với hamartoma hạ đồi cho phép phân biệt u này với các nhóm u khác như u thần kinh đệm hạ đồi và di căn.

BS. Cao Thiên Tượng – khoa CDHA BVCR

Dịch từ: Lesions of the Hypothalamus: MR Imaging Diagnostic Features1
 Sahar N. Saleem, MD, PhD, Ahmed-Hesham M. Said, MD, PhD, and Donald H. Lee, MD