CHẨN ĐOÁN U MẠC TREO VÀ PHÚC MẠC PHẦN I
Ca lâm sàng:
Bệnh nhân nam 54 tuổi, đến khám vì thấy bụng to ra khoảng 1 tháng
Hình 1: u ở mạc treo và dính vào phúc mạc thành bụng trước có đậm độ dịch, mô mềm bên trong có nhiều vách bắt thuốc (mũi tên đỏ). Đóng vôi mạc treo (mũi tên xanh).
Hình 1: u ở mạc treo và dính vào phúc mạc thành bụng trước có đậm độ dịch, mô mềm bên trong có nhiều vách bắt thuốc. Chèn ép các quai ruột
Sau phẫu thuật: Khối u kích thước rất lớn chiếm toàn ổ bụng có nhiều thùy, mật độ căng, dính vào phúc mạc thành bụng sau, có khả năng xuất phát từ mạc treo cách góc treitz 1m. Bóc tách khối u thấy dịch vàng nhạt, bên trong nhiều thùy có vách dày, có nhiều khối sùi và chắc.
Giải phẫu bệnh: Leiomyosarcoma mạc treo.
2 tháng sau bệnh nhân tái khám được chụp CT kiểm tra,
Hình CT 2 tháng sau,
LEIOMYOSARCOMA MẠC TREO (MESENTERIC LEIOMYOSARCOMA)
Các u ở mạc treo hầu hết là do di căn từ các tạng trong ổ bụng, từ các u ác tính ở đường tiêu hóa chiếm phần lớn. Các u ác tính có nguồn gốc từ mạc treo rất ít gặp, trong đó lymphoma chiếm phần lớn, các u khác gồm; leiomyosarcoma, liposarcoma, fibrosarcoma, teratoma ác tính, hemangiopericytoma.
Leiomyosarcoma là u trung mô ác tính chiếm hầu hết u trung mô ác tính của mạc treo. Ngày nay, những u này được xem như GISTs, và đặc trưng bởi hóa mô miễn dịch (CD117, CD34).
3 ca leiomyosarcoma mạc treo đầu tiên được mô tả bởi Yannopoulos và cộng sự năm 1962. Kể từ đó đã có khoảng 30 ca được báo cáo trong y văn. U bắt nguồn từ trung bì của mạch máu mạc treo, mô sợi hoặc sợi thần kinh. Khoảng 2/3 u ở mạc treo ruột non, đặc biệt là hồi tràng, có thể gặp ở mạc treo đại tràng ngang, sigma, dây chăng gan tá tràng. (Trong ca trình bày ở trên bắt nguồn từ mạc treo hổng tràng). U thường ở vị trí vùng ngoại vi mạc treo, nơi thường có thể bị dính vào ruột non.
Triệu chứng lâm sàng, hầu như không có triệu chứng khi u nhỏ. Khi u kích thước lớn, có thể gây đau, sờ thấy mass cứng, bờ không đều, di động hoặc không. Hiếm khi u có biến chứng abscess, xuất huyết trong ổ bụng, hoặc gây xoắn hồi tràng. U kích thước lớn và nặng 2330g đã được báo cáo (Harada, 1994).
Trên siêu âm hoặc CT có thể giúp ích chẩn đoán. Hình ảnh thường gặp là nang, vách, hoặc hoại tử bên trong u, tuy nhiên có thể nhầm với nang mạc treo, nang giả tụy, hoặc u tử cung. Hình ảnh CT có thuốc tương phản đường tiêu hóa và tĩnh mạch có thể thấy được thâm nhiễm mạc treo, u nằm ở mạc treo tách biệt với đường tiêu hóa.
Điều trị: U thường không đáp ứng với xạ trị hoặc hóa trị, phẫu thuật tách bỏ u hoàn toàn khi u không dính với ống tiêu hóa. Nhưng phẫu thuật tách bỏ u và cắt bỏ phần ống tiêu hóa kế cận là điều cần thiết. Theo Ch. Lazaridis và cộng sự (2001), 3 trường hợp leiomyosarcoma của ông báo cáo đều được phẫu thuật tách bỏ u hoàn toàn và cắt bỏ đoạn ruột kế cận dài khoảng 16 – 40cm.
Yếu tố tiên lượng phụ thuộc vào độ ác tính của GISTs. Theo Ranchod hoạt động gián phân của GISTs rất giúp ích nhận biết khả năng ác tính. Sự hiện diện hơn 10 hoạt động gián phân của GISTs dẫn đến tỉ lệ sống 10 năm chỉ khoảng 14%.
U khuynh hướng tái phái và cho di căn gan, nên theo dõi sau phẫu thuật rất cần thiết. Ở ca trình bày ở trên, trên CT thấy u gần như chiếm hết mạc treo ổ bụng và tuy không thấy di căn gan, nhưng khả năng tái phát và di căn cao. Bệnh nhân này đã được chụp CT sau 2 tháng, u tái phát lại như cũ.
GIẢI PHẪU PHÚC MẠC VÀ MẠC TREO
(Tóm lược theo http://www.radiologyassistant.nl)
CHẨN ĐOÁN U MẠC TREO VÀ PHÚC MẠC
Dạng nang | Dạng u đặc. |
1. Mucinous Carcinomatosis 2. Pseudomyxoma peritonei 3. Mesenteric cyst – Lymphangioma 4. Enteric Duplication Cyst 5. Nonpancreatic Pseudocyst 6. Enteric cyst and mesothelial cyst 7. Peritoneal Inclusion Cyst 8. Tuberculosis 9. Echinococcal Cyst |
|
Mucinous carcinomatosis
mucinous carcinomatosis với những nốt dọc rãnh đại tràng phải.
Mucinous carcinomatosis là u dạng nang thường gặp nhất trong các khoang phúc mạc. Hay gặp di căn từ buồng trước và ống tiêu hóa ( Dạ dày, đại tràng) và tụy. Ít dấu hiệu đặc trưng trên hình ảnh. Tuy nhiên nếu carcinoma tuyến nhầy grade thấp của ruột thừa mà lan vào các khoang phúc mạc, khi đó có hình ảnh điển hình của u giả nhầy phúc mạc giúp chẩn đoán phân biệt tốt. Peritoneal carcinomatosis sẽ thấy những nốt ở những nếp phục mạc (mũi tên), u mạc nối, tắc ruột.
Pseudomyxoma peritonei: U giả nhầy phúc mạc
Pseudomyxoma peritonei bao quanh gan hình vỏ sò và chiếm gần hết lách. Chú ý nốt vôi hóa
Pseudomyxoma peritonei là do carcinoma tuyến nhầy ruột thừa lan tràn đến các khoang phúc mạc. Hội chứng lâm sàng đặc trưng: cổ chướng tái phát nhiều lần, u phát triển trên bề mặt phúc mạc nhưng không có dấu hiệu xâm lấn các mô.
Hình ảnh điển hình là đậm độ dịch dạng hình vỏ sò bao trên bề mặt gan và lách. Không giống như ung thư di căn phúc mạc, u giả nhầy phúc mạc không có tổn thương dạng nốt đặc (u) ở phúc mạc và mạc nối. U giả nhầy có thể có nốt vôi hóa
Pseudomyxoma peritonei: Hình ảnh vỏ sò rất cứng quanh bề mặt gan, dây chằng liềm rất dày. Hình ảnh u nhầy ruột thừa (mũi tên).
Xem tiếp trang 2