MỘT VÀI DẤU HIỆU X QUANG
DẤU CHẤM TRÒN (Polka-dot sign)
HÌNH ẢNH
Dấu hiệu chấm tròn thấy trên hình ảnh CT cắt ngang của thân sống. Khoang tuỷ của thân sống có nhiều chấm tăng đậm độ (Hình) giống như kiểu trang tri vải bằng chấm tròn trên áo quần.
Hình ảnh CT cắt ngang qua thân sống thắt lưng thấy các chấm tròn điển hình của Hemangioma thân sống, tổn thương hầu như ở khoang tuỷ xương.
GIẢI THÍCH:
Dấu hiệu này được tạo ra do dày bè xương trong hemangioma thân sống, thấy trên hình cắt ngang là những đốm nhỏ tăng đậm độ. Dày bè xương do sự tăng cường của mạng lưới xương bên cạnh các kênh mạch máu của tổn thương do tiêu xương.Quá trình này xảy ra trong tuỷ mỡ.
BÀN LUẬN:
Hemangioma xương là tổn thương lành tính có đặc điểm các khoang mạch được lót bởi các tế bào biểu mô. Thương gặp ở xương cột sống và xương sọ, ít gặp hơn ở xương dài như xương chày , xương đùi và xương cánh tay. Hemangioma thân sống chiếm # 28% các Hemangioma xương, ngực là vị trí thương gặp nhất. Hemangioma thương không có triệu chứng và thường được phát hiện tình cờ. Một nghiên cứu lớn trên tử thi thấy có # 11% Hemangioma thân sống. Tuy nhiên, với hình ảnh học hiện đại, ngày nay người ta phát hiện nhiều Hemangioma nhỏ, vì vậy có lẽ tần suất còn cao hơn 11%. Tỷ lệ nam: nữ = 2:1, thường được phát hiện trong độ tuổi từ 40 – 50 tuổi. Tổn thương có thể chiếm một phần hay toàn bộ thân sống, và trong một 1/3 trương hợp là nhiều ổ. Hầu hết hemangioma thân sống không có triệu chứng và không quan trọng trên lâm sàng, tuy nhiên đôi khi có các triệu chứng thần kinh do xẹp thân sống hoặc lan vào trong ống sống gây chèn ép, có thể dẫn đến đau và/ hoặc liệt hai chi dưới, đạc biệt nếu tổn thương lan đến thành phần sau hoặc mô mềm xung quanh. Hemangioma thân sống cho thấy các sọc dọc đều đặn và vỏ xương bình thường trên Xquang cột sống qui ước. Thương tổn thương thân sống không hoàn toàn, cung sau và mô mềm thương bình thường. Hemangioma thân sống gồm mô đệm nằm trong mạng lưới xương. Laredo và cs đã nghiên cứu trị số đậm độ CT của mô đệm là một dấu chỉ điểm của đặc điểm tổn thương và dạng tác động. Họ thấy mô đệm có thể có đậm độ mỡ, mô mềm hoặc cả hai. Các hemangioma thân sống không triệu chứng có khuynh hướng chứa nhiều mỡ hơn, biểu hiện bằng đậm độ âm rên CT, ngược lại nếu nhiều mạch máu và đậm độ cao trên CT thì thường có triệu chứng MRI, hemangioma thân sống có đậm độ cao trên T1W Và T2W. Tuy nhiên, mức độ tín hiệu cao phụ thuộc vào lượng mỡ. Mỡ trong mô đệm giữa các bè xương càng nhiều thì tín hiệu càng cao. Dấu hiệu chấm tròn trên CT là biểu hiện của hemangioma lành tính. Chẩn đoán phân biệt hemangioma xương dựa vào các dấu hiệu Xquang qui ước đã được Liu và cs mô tả. Ho đã mô tả các dấu hiệu X quang kinh điển trên hemangioma nền sọ. Các chNn đoán có thể là sarcoma sụn và u màng não trong xương. Bemporad và cs dã báo cáo biểu hiệu Xquang ít gặp của Ewing sarcoma nguyên phát cột sống cổ. Trên CT, thấy dạng bè xương thô. dấu hiệu này kết hợp với khối mô mềm ngoài màng cứng hình quả tạ lan ra lỗ liên hợp kèm chèn ép tuỷ. hemangioma trong xương cần phải phân biệt với sarcoma, sarcoma thường có đặc điểm xâm nhập như phá huỷ vỏ xương và xâm lấn màng xương.
Tóm lại, dấu hiệu chấm tròn trên hình CT cắt ngang do dày bè xương trong hemangioma thân sống. Nguồn: ở đây
DẤU HIỆU HÌNH LIỀM CƠ XƯƠNG KHỚP
HÌNH ẢNH
Dấu hiệu hình liềm thấy trên X quang quy ước và được ghi nhận là đường cong thấu quang của xương duới sụn (hình 1a). Nó thường thấy dọc theo mặt trước ngoài của đầu trên xương đùi, thấy rõ nhất ở thế chụp đùi ếch.
Hình 1. (a) Hình X quang quy ước đầu trên xương đùi ở tư thế đùi ếch với đùi bệnh nhân dạng và gập thấy vùng tăng sáng xương duới sụn (mũi tên) ở mặt trước ngoài đầu trên xuơng đùi (hình của Clyde A. Helms, MD, Department of Radiology, Duke University Medical Center, Durham, NC). (b) Hình mẩu mô chụp X quang đoạn đầu xương đùi cắt coronal (mũi tên) bộc lộ dấu hình liềm. Ghi nhận sự phân mảnh và nén lại của bè xuơng xốp dưới sụn, làm yếu bề mặt khớp (hình của Edward F. DiCarlo, MD, Department of Pathology, Hospital for Special Surgery, New York, NY.).
GIẢI THÍCH
Dấu hình liềm liên quan với hoại tử vô trùng. Sự tuới máu không đủ ở phần mặt khớp của xương dNn đến quá trình hoại tử xuơng và sửa chữa. Sự sửa chữa bắt đầu ở giao diện của xương hoại tử và xương sống. Xương mới phản ứng phủ lên bè xuơng chết gây ra bờ xơ xương. Mặt phía trước đang tiến triển của xơ, xung huyết, viêm và tiêu xương lan vào đoạn hoại tử của xương khi sữa chữa. Sự suy yếu cơ học của bè xương ở giai diện này dẫn đến vi gãy xương tiến triển và xẹp bè xương xốp duới sụn kế cận bị chết, tạo ra một vùng thấu quang dưới sụn dọc theo đường gãy, hay là dấu hiện hình liềm (hình 1b). Hình ảnh của dấu hiệu này kéo theo xẹp đầu xuơng ở bề mặt khớp, cuối cùng dNn đến phá huỷ sụn và thoái hoá khớp háng.
BÀN LUẬN
Một số tình trạng ảnh hưởng đến việc phát sinh hoại tử vô trùng. Đó là bệnh hemoglobine (bệnh hồng cầu hình liềm), sử dụng corticosteroid và bệnh Cushing, phá vỡ cấp máu do cấhn thương (gãy cổ xương đùi trong bao khớp), bệnh thận mạn tính, ruợu, có thai, chiếu xạ liều cao, rối loạn áp suất và bệnh Gaucher. AVN có thể được chia thành 4 giai đoạn lâm sàng và X quang dựa trên hê thống phân loại của Ficat. Ở giai đoạn I, X quang quy ước bình thuờng nhưng MRI hoặc xạ hình khẳng định có AVN. Ở giai đoạn hai, các biến đổi nang và xơ xuơng thấy trên X quang quy ước. Ở giai đoaạ III, thấy dấu hiệu hình liềm. Ở giai đoạn IV, có xẹp đầu xuơng đùi, hẹp khe khớp háng và cuối cùng là phá huỷ khớp nặng. Hoại tử vô trùng thường gặp nhất ở đầu trên xương đùi, ít gặp hơn là ở đầu trên xương cánh tay (hình 2). Hoại tử vô trùng cũng có thể gặp ở đầu dưới xương đùi và xuơng sên. Ít gặp hơn là ở xương nguyệt cổ tay, đầu xương bàn tay, xương ghe cổ chân.
Hình 2. X quang thẳng đầu xương cánh tay trái ở bệnh nhân điều trị corticoid liều cao thấy nhiều vùng thấu quang xương dưới sụn (đầu mũi tên) cho thấy hoại tử vô trùng giai đoạn III.
Không kể đến vị tri giải phẫu của hoại tử vô trùng, sự hiện diện của dấu hình liềm giúp phân giai đoạn bệnh và xác định chiến lược điều trị. Nói chung vì hoại tử vô trùng giai đoạn muộn có tiên lượng xấu, nên cần quan tâm đến các phương pháp phát hiện sớm. MRI đã chứng tỏ là có hiệu quả để phát hiện hoại tử vô trùng ngay cả khi không có trệiu chứng và khả năng mô tả bất thường tuỷ xuơng. Mặt khác, khả năng của xạ hình xuơng để mô tả các vùng lắng đọng xương và khoáng hoá cho phép phát hiện sớm hoại tử vô trùng tốt truớc khi thấy xơ xương trên X quang qui ước. Xạ hình xương toàn bộ cơ thể cũng có khả năng mô tả nhiều vị trí tổn thuơng. Việc phân tầng nguy cơ với MRI và xạ hình xương đã lọc ra các bệnh nhân không cần thiết phẫu thuật, và được dùng để xác định thời gian thích hợp để can thiệu bảo tồn đầu xương như khoang lõi (core-drilling), ghép xương, đục xương.
Mặc dầu khởi đầu triệu chứng của hoại tử vô trùng có thể đột ngột, đặc biệt là sau khi ghép thận và bệnh hồng cầu hình liềm, thuy nhiên khởi bệnh thuờng âm ỉ hơn. Các triệu chứng kín đáo có thể đi trước các thay đổi trên X quang một vài tháng đến vài năm. Thông thuờng, đau chủ quan và rối loạn chức năng khớp trên lâm sàng cần phải chụp X quang ngay. X quang trong thời gian này thường thấy có dấu hình liềm hoặc dẹp đầu xương đùi, gợi ý xẹp một đoạn khá lớn bề mặt khớp. Mặc dầu dấu hình liềm thường gặp nhiều nhất trong hoại tử vô trùng, nó cũng xảy ra ở các bệnh xương khác. Chẳng hạn, gãy xé rách sụn xương của đầu xương đùi gặp ở bệnh nhân chấn thương cũng được biết là có dầu hình liềm; tuy nhiên, gãy xé rách thường dễ phân biệt dựa vào bệnh sử lâm sàng. Để kết luận, dấu hình liềm thường gặp nhất trong hoại tử vô trùng và thuờng xảy ra ở giai đoạn sau của bệnh. Dấu hình liềm được mô tả trên X quang quy ước là đường thấu quang xương dưới sụn liên quan với đầu trên xuơng đùi hoặc xuơng cánh tay. Một khi phát hiện dâấ hiệu này, có thể xảy ra xẹp thêm nữa. Khi có sẵn MRI và xạ hình xương, chNn đoán sớm hơn và can thiệp điều trị có thể được và cuối cùng dẫn đến tiên lượng tốt hơn.
Bs Cao Thiên Tượng
Từ Radiology
CÁC DẤU HIỆU ”THỨC ĂN” TRONG X QUANG XƯƠNG KHỚP
TÓM TẮT:
Bài này mô tả một số dấu hiệu “thức ăn”trong X quang xương khớp. Bàn luận các bệnh lý gây ra các dấu hiệu đặc hiệu này và các chNn đoán phân biệt. Các bác sĩ X quang hiện nay có ít thời gian để tận hưởng Nm thực và cảm giác ngon miệng trong thời gian làm viện bận rộn suốt ngày. Trong buổi trưa cảm giác thèm ăn không giảm xuống, nhưng đầu óc đã được no nê nhờ ghi nhận nhiều dấu hiện “thức ăn” trong X quang xương khớp. Bàn luận các bệnh lý gây ra các dấu hiệu X quang đặc hiệu này cho một điều đáng suy nghĩ và làm quen với các chNn đoán phận biệt, một nơi nào đó thích hợp, người đọc có thể ngẫm nghĩ.
Bữa ăn sáng
Thân sống bánh kếp
Thuật ngữ “thân sống bánh kếp” (hình 1) là sự dẹt lan toả, rõ rệt toàn bộ thân sống (đốt sống phẳng-vertebra plana). Có thể gặp trong nhiều bệnh. Ở người lớn, nguyên nhân thường gặp là loãng xương, u di căn, đa u tuỷ. Ở trẻ em, cần xem xét đến bệnh u hạt tăng bạch cầu ưa acid (eosinophilic granuloma). Các nguyên nhân khác gồm leukemia, lymphoma, hemangioma, viêm xương tuỷ xương,hoại tử vô mạch và gãy chấn thương.
Hình 1
Ngón tay xúc xích
Ngón tay xúc xích (hình 2) là sưng mô mềm lan tỏa toàn bộ một ngón tay (hoặc ngón chân) giống như hình dáng cục xúc xích, thấy khi khám thực thể hoặc trên X quang. Có lẽ gần như đặc trưng cho viêm khớp vảy nến, có thể gây viêm khớp gian đốt ngón gân và xa cũng như bao gân ngón; tuy nhiên, ngón tay xúc xích có thể do các dạng khác của viêm khớp hoặc viêm ngón. Có thể xem xét đến viêm bao gân ở bệnh nhân không có bất thường xương hoặc khớp. Ở bàn chân, viêm khớp phản ứng (một thành phần của hội chứng Reiter) hoặc gout có thể gây ngón tay xúc xích.
Hình 2
Gãy trái chuối
“Gãy trái chuối” (hình 3) gặp ở xương dài bệnh nhân bị bệnh Paget. Còn được gọi là gãy do suy yếu vỏ xương vì xảy ra ở bề mặt căng (lồi) của xương bị suy yếu và xương cong dạng Paget, tương tự như ở chỗ vỏ trái chuối có thể vỡ ra khi bẻ nó để lột vỏ. Vỏ đầu gần xương đùi mặt ngoài là vị trí thường gặp của gãy trái chuối; Ngược lại, gãy stress thông thường của đầu gần xương đùi thường xảy ra dọc theo bề mặt bị ép (mặt lõm).
Hình 3
Bữa ăn trưa
Thân sống Sandwich
Thân sống Sandwich” (hình 4) gặp ở bệnh nhân bị xương hoá đá (osteopetrosis), một bệnh lý xương ditruyền do hoạt động tế bào tiêu xương bị thiếu hụt. Ngoài tăng đậm độ xương lan toả, trên X quang còn có thể thấy xơ xương bề mặt trên và dưới của thân sống giống như bánh mì sandwich. Dạng tương tự có thể gặp ở bệnh nhân bị xơ tủy xương hoặc ở các bệnh nhân loạn dưỡng xương do thận (renal osteodystrophy)
Hình 4
Xương nguyệt hình miếng pho mai (và ly trà đầy) Hình 5
Xương nguyệt thường có hình dáng ly trà trên X quang nghiêng và hình tứ giác trên chiều thế thẳng(PA). Xương nguyệt trông cỏ vẻ có hình tam giác trên thế PA (giống như lát phô mai hình tam giác) ở bệnh nhân bị trật khớp xương nguyệt hoặc quanh xương nguyệt (hình 5A). Trật khớp này có thể đánh giá thêm ở thế chụp nghiêng (hình 5B). Khi trật khớp quanh xương nguyệt, xương quay và xuơng nguyệt còn giữ mối quan hệ tương đối bình thường, trong khi xương cả trật ra sau. Khi trật khớp xương nguyệt, xương quay và xương cả cò tương đối thẳng hàng, trong khi xương nguyệt di lệch về phía gan bàn tay. Theo kinh nghiệm của chúng tôi, xương nguyệt có hình tam giác cũng có thể thấy ở thế chụp PA ở bệnh nhân có dạng mất vững một phần xen vào giữa về phía sau.
Dấu “cắn” hình 6
Dấu “cắn” (hình 6) sự phá hủy khớp giống bệnh lý thần kinh thấy trong bệnh khớp do steroid. Trong các trường hợp hoại tử chỏm nặng (sau xẹp dưới sụn của chỏm xương đùi), đường bờ khớp có thể trở nên biến dạng giống như xương bị gặm. Mặc dù nhiều loại viêm khớp có thể dẫn đến mòn nhiều, có thể giống như bị “cắn”, các bệnh này thường bị cả hai phía của khớp và không gây xơ chỏm xương đùi liên quan với hoại tử vô mạch. Mòn giống như bị cắn ngoài khớp cũng có thể thấy ở bệnh nhân bị guot có cục tophi. Dấu hiệu cắn cũng được mô tả trong u xơ sụn dạng nhầy (chondromyxoid fibroma), là một u sụn xương lành tính hiếm gặp. Các u này thường xuất phát lệch tâm trong hành xương của xương dài và có thể xuyên qua vỏ xương theo kiểu giống như bị cắn.
Buổi tối
Dấu hiệu bánh bao nhân nho
hamburger và bánh bao nhân nho
hamburger đảo ngược
Dấu hiệu bánh bao nhân nho hamburger (hình 7) là mối quan hệ bình thường giữa mắt khớp trên và mặt khớp dưới của đốt sống cổ, thấy trên hình CT cắt ngang. Mặt khớp trên hình thành “đỉnh bánh”, mặt khớp dưới cũa đốt sống chồng lên hình thành phần “đáy bánh” và khớp liên mấu là “bánh bao”. Hình 7 Hình 8 Không có dấu hiệu bánh bao nhân nho Hamburger thấy khi trật khớp liên mấu; đặc biệt, diện khớp trên có thể trật ra sau so với diện khớp dưới, tạo hình ảnh giống như “đáy bánh” dựa vào “đỉnh bánh” (hình 8), còn được gọi là dấu hiệu “bánh bao nhân nho đảo ngược”
Viêm màng xương kiểu vỏ hành Hình 9
“Viêm màng xương kiểu vỏ hành” thấy trong bệnh lý xương xâm lấn và được gọi như vậy vì biểu hiện nhiều lớp màng xương mỏng tương tự như các lớp vỏ hành đồng tâm khi cắt ngang. Kiểu này được cho là biểu hiện hoặc là gia tăng của đáp ứng màng xương bình thường hoặc là các giai đoạn phát triển nhanh và chậm luân phiên nhau. Nó thấy trong một số xương khớp xâm lấn, đặc biệt sarcoma xương ác tính (chẳng hạn sarcoma xương,sarcoma Ewing), lymphoma xương và viêm xương tủy xương cấp.
Đầu ngón tay dùi trống Hình 10
Thuật ngữ “đầu ngón tay dùi trống” (hình 10) là các đốt ngón xa hình búi tròn và rộng của bệnh nhân bị hội chứng Turner, nói một cách hình tượng là giống như rộng phần đuôi thịt của gà giò hoặc dùi trống Thổ nhĩ kỳ. Ngón tay dùi trống cũng có thN thấy trong bệnh nhân hội chứng rối loạn di truyền hiếm gặp Coffin- Lowry.
Vòm sọ muối tiêu Hình 11
“Vòm sọ muối tiêu” mô tả hình ảnh hạt của xương sọ ở bệnh nhân bị cường cận giáp. Dấu hiệu này biểu hiện các ổ tiêu xương hình cầu nhỏ bị kích thích do nồng độ hormone cận giáp cao. Trên X quang sọ, những đốm nhỏ thấu quang trông giống như rắc muối tiêu (hình 11). Mặc dầu hầu như liên quan một cách đặc thù với cường cận giáp, sọ muối tiêu cũng thấy ở bệnh nhân mất khoáng xương do u lan toả hoặc nhiễm trùng.
Hạt gạo và thể gạo Hình 12 hình 13
Nhiễm ký sinh trùng Taenia solium (sán lợn) và hậu quả đáp ứng của vật chủ có thể dẫn đến hình thành mô hạt (ấu trùng chết đóng vôi) trong cơ, não và các mô khác (cysticercosis). Hình
ảnh X quang là mô hạt đóng vôi hình bầu dục hoặc dạng đường, nằm dọc theo trục dài cơ, xứng đáng với từ “hạt gạo” (hình 12). Từ “hạt gạo” cũng còn dùng để chỉ thể loose trong khớp thấy trên X quang ở bệnh nhân lắng đọng xương sụn trong bao hoạt dịch (synovial osteochondromatosis). Từ “thể gạo” được dùng để mô tả hình thái mô học của các lông tơ hoạt dịch phì đại bong ra trong khớp ở bệnh nhân viêm khớp dạng thấp, nhiễm lao và các bệnh viêm khớp khác. Thể gạo cũng có thể thấy trong khớp và bao hoạt dịch trên MRI là nhiều nốt nhỏ tín hiệu thấp trên T2W (hình 13).
CÁC BIỂU HIỆN X QUANG CỦA VIÊM PHỔI TRÒN Ở NGƯỜI LỚN
Viêm phổi tròn đôi khi gây ra nốt phổi đơn độc, chiếm dưới 1% “tổn thương hình đồng xu” và được báo cáo lần đầu tiên trong y văn X quang vào năm 1954. Ung thư phổi là nhóm bệnh được thường được bác sĩ lâm sàng và X quang nghĩ nhiều nhất khi đối diện với tổn thương hình đồng xu (hình 1), vì carcinoma có khả năng gây tử vong cao nhất và tương đối thường gặp. Ở nhiều bệnh nhân, cần chụp CT ngực và sau đó đôi khi phải sinh thiết qua da hoặc qua nội soi phế quản. Viêm phổi tròn nói chung thường gặp ở trẻ em và ít được báo cáo ở người lớn. ChNn đoán cần được đặt ra ở bệnh nhân trẻ có hình ảnh lâm sàng viêm phổi điển hình. Tuy nhiên, một số nghiên cứu đã ước lượng rằng, viêm phổi tổ chức hoá có thể chiếm đến 10% các trường hợp viêm phổi và tần suất có thể tăng lên theo sự tăng sử dụng kháng sinh. Điều quan trọng là cần nhận biết bệnh này vì bệnh sử ho hoặc sốt có thể không có hoặc xa với thời điểm biển hiện, làm khó chNn đoán.
Các dấu hiệu lâm sàng
Các triệu chứng lâm sàng của viêm phổi tròn có thể nhẹ, giống như hội chứng virus hoặc viêm phế quản. Một số bệnh nhân bị viêm phổi tròn không có triệu chứng lúc ban đầu, mặc dù khám lâm sàng cNn thận có thể thấy bệnh sử ho và sốt nhẹ 1 tuần hoặc hơn trước khi biểu hiện bệnh. Bệnh nhân có thể được điều trị bằng kháng sinh dựa và triệu chứng mà không có chụp x quang ngực, có thể giải thích sự khác biệt giữa tần suất ước lượn gcủa viêm phổi tròn và số các trường hợp các bác sĩ X quang thấy được. Ngoài ra, bác sĩ x quang thiếu dữ liệu lâm sàng có thể dẫn đến việc bác sĩ lâm sàng là người duy nhất biết được chNn đoán cuối cùng.
X quang ngực
Đặc điểm X quang của viêm phổi tròn ở người lớn thay đổi. Hình ảnh chung có thể ở phạm vi từ khối mờ nhỏ đến lớn, hình tròn, giới hạn kém rõ (hình 2). Tổn thương của viêm phổi tròn không nhất thiết hình tròn; có thể thấy tổn thương hình oval. Bờ có thể trơn láng trên X quang, đôi khi có múi hoặc có thể không đều hoặc có gai. Theo kinh nghiệm của chúng tôi, hầu hết các tổn thương trơn láng hoặc không đều nhẹ. Sự hiện diện hình phế quản đồ (air bronchogram) trên hình X quang ngực có thể làm cho người đọc hướng chần đoán về bệnh lý nhiễm trùng, nhưng trong 1 nghiên cứu chỉ có 17 % bệnh nhân viêm phổi tròn có hình phế quản đồ. Thật ra thì hình phế quản đồ cũng có thể thấy trên X quang và CT ở bệnh nhân bị carcinoma tuyến và carcinoma phế quản – phế nang. Vì vậy, hình phế quản đồ không đặc trưng cho cả hai nhóm bệnh này. Viêm phổi tròn thường ở thùy dưới. Tổn thương thuỳ trên cần được nghi ngờ, ngay cả khi có triệu chứng gợi ý nhiễm trùng. Viêm phổi tròn được nghĩ là do biểu hiện sớm của bệnh từ một ổ nhiễm trùng lan kiểu ly tâm, hoặc bằng cách đi qua các lỗ
Kohn hoặc ống Lambert, hoặc bằng cách phá huỷ thành phế nang xung quanh. Một giả thuyết khác cho rằng viêm phổi tròn xảy ra ở trẻ em vì các lỗ Kohn chưa phát triển và không có ống Lambert làm hạn chế sự lan của vi sinh vật dẫn đến khối tròn, ổ thấy trên X quang và CT. Giả thuyết này cũng có thể giải thích tại sao viêm phổi tròn thường ít gặp hơn ở người lớn, có ống Lambert phát triển đầy đủ. Giai đoạn tạo hình tròn cũng có thể thấy khi viêm phổi lan toả thuyên giảm chậm, gợi ra quá trình bệnh lý thứ phát (hình 4). X quang ngực có thể giúp ích khi có phim so sánh tương đối mới với các dấu hiệu bình thường. Khối 2-3cm xuất hiện trong vòng 2-6 tuần sau thường có lẽ là nhiễm trùng hơn là u.
Hình 1. Bệnh nhân nam 38 tuổi sốt và ho. A và C. Hình A thế chụp AP và hình B nghiêng, thấy một khối tròn giới hạn rõ ở phân thùy trên của thùy dưới phải. Khối có múi. Thuyên giảm sau khi điều trị kháng sinh.
Hình 2. Nam 39 tuổi sốt và bạch cầu cao. Hình A và B, A phim thẳng và B, phim nghiêng thấy một khối tròn giới hạn kém rõ ở thùy dưới phổi phải không có hình phế quản đồ. X quang ngực 3 tuần sau thấy bình thường.
Hình 3. Nam 54 tuổi, mệt mỏi và đau chói ngực. A X quang ngực có khối hình oval ở thùy dưới phải. Khối tăng đậm độ bờ gai thấy trên CT, không có hình phế quản đồ và phản ứng màng phổi. Viêm phổi tròn được chẩn đoán bằng sinh thiết và cấy đàm có Staphyloccocus pneumonea. Sau hai tuần điều trị kháng sinh, chụp CT theo dõi thấy bình thường.
Hình 4. Nam 53 tuổi nhập khoa cấp cứu với thở nông dần, sốt, ho đàm, ớn lạnh. A Hình X quang đầu tiên thấy viêm phổi lan tỏa thùy dưới hai phổi. Bệnh nhân
CT
Khi thấy trên CT, viêm phổi tròn gồm khối có đậm độ mô mềm không đồng nhất, có thể có gai (hình 5), hình phế quản đồ, dày màng phổi và các tổn thương vệ tinh, mặc dù hai dầu hiệu sau dường như giúp ích nhiều nhất cho chNn đoán. Một nghiên cứu thấy rằng, trên CT, 94% viêm phổi tròn có bờ không đều và 22% có gai thô. Tuy nhiêu gai này không thấy trên phim X quang tương ứng, có thể do CT có độ phân giải không gian cao hơn. Kyriyama và cs. thấy hình phế quản đồ ngoại biên ở 65% bệnh nhân có nốt ác tính so với 5% lành tính, làm cho các nhà nghiên cứu này nghĩ là hình phế quản đồ chứng tỏ bệnh lý ác tính. Ziwievich và cs. cũng thấy hình phế quản đồ gặp ở nốt phổi ác tính (85%) hơn lành tính (55%), nhưng Kohno và cs. thầy hình phế quản đồ trên CT ở 50% trường hợp viêm phổi tròn. Vì vậy, có hay không có hình phế quản đồ không giúp phân biệt giữa ác tính và viêm phổi tròn. Dày màng phổi đi kèm hiện diện khi viêm phổi tròn tiếp giáp với bề mặt màng phổi (hình 6), có lẽ do liên quan với phản ứng viêm nhưng không thấy ở tổn thương ở trung tâm. Kohno và cs đã báo cáo rằng, chỉ có các dâu hiệu CT giúp chNn đoán viêm phổi tròn là tổn thương vệ tinh thấy ở 65% bệnh nhân và tổn thương đáy rộng tiếp xúc với bề mặt màng phổi.
TÓM LẠI
Viêm phổi tròn, một nguyên nhân lành tính của các tổn thương hình đồng xu thấy trên X quang ngực, thường khó phân biệt với carcinoma nguồn gốc phế quản. Mặc dầu tương đối ít gặp ở người lớn, bệnh này cũng có thể thấy hầu hết trong thực hành X quang và có thể dẫn đến chụp CT và sinh thiết.
BS CAO THIÊN TƯỢNG
Nguồn AJR:170, March, 1998
round-pneumonia